Thông tin y học
Cập nhật về phân loại suy tim ( 27/3/2009 )
(CardioNet.VN) - Suy tim là tình trạng tim không cung cấp đủ máu đáp ứng được nhu cầu của cơ thể do những bệnh lý làm biến đổi cấu trúc và chức năng của tim như bệnh tim thiếu máu cục bộ và nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp, bệnh van tim và bệnh cơ tim.

 Hình ảnh bệnh nhân suy tim ứ huyết

Triệu chứng của suy tim thường là khó thở, thở nhanh nông nhất là khi nằm (cảm giác chẹn ngực), ho, phù mắt cá chân và khả năng gắng sức giảm. Điều trị suy tim gồm các biện pháp như thay đổi lối sống (giảm lượng muối đưa vào cơ thể), điều trị bằng thuốc, tim mạch can thiệp và phẫu thuật.

Có nhiều cách phân loại suy tim, bao gồm:

  • Theo vị trí của buồng tim: suy tim trái, suy tim phải và suy tim toàn bộ
  • Theo chức năng sinh lý tâm thu và tâm trương của tim: suy tim tâm thu và suy tim tâm trương
  • Theo tải gánh đối với tim: suy tim do tăng tiền gánh và suy tim do tăng hậu gánh
  • Theo cung lượng tim: suy tim cung lượng thấp (còn gọi là suy tim ứ huyết) và suy tim cung lượng cao
  • Theo mức độ rối loạn chức năng:
    • Theo Hội Tim New York (NYHA):
      • Độ I: Không hạn chế hoạt động thể lực, sinh hoạt hàng ngày bình thường
      • Độ II: Hơi bị hạn chế khi hoạt động thể lực ở mức độ nặng, không thấy khó chịu khi nghỉ hoặc gắng sức vừa phải
      • Độ III: Hạn chế đáng kể đối với bất cứ hoạt động thể lực nào nhưng vẫn còn dễ chịu khi nghỉ ngơi
      • Độ IV: Khó khăn khi hoạt động thể lực ngay ở mức độ rất nhẹ và khó thở, mệt nhọc ngay cả khi nghỉ 
    • Theo Trường môn Tim Mạch Mỹ (ACC) và Hội Tim Mạch Mỹ (AHA):
      • Giai đoạn A: bệnh nhân có nguy cơ suy tim cao nhưng hiện tại không rối loạn chức năng và cấu trúc tim
      • Giai đoạn B: Rối loạn cấu trúc tim nhưng không có triệu chứng suy tim trên lâm sàng
      • Giai đoạn C: có sự biến đổi cấu trúc tim, đã hoặc đang có triệu chứng của suy tim nhưng vẫn đáp ứng với thuốc điều trị
      • Giai đoạn D: Suy tim tiến triển nặng cần được thay tim hoặc điều trị thêm bằng các biện pháp khác tại bệnh viện
  • Theo tính chất tiến triển:
    • Suy tim cấp: suy tim hình thành và tiến triển nhanh, đột ngột, thường do nguyên nhân cấp tính (cơn tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tắc động mạch phổi cấp tính…)
    • Suy tim mạn tính: thời gian suy tim kéo dài trong đó có những giai đoạn ổn định, xen kẽ với đó là những đợt suy tim nặng lên gọi là đợt cấp của suy tim mạn tính hay suy tim mạn tính mất bù.

SUY TIM TÂM THU

Suy tim tâm thu là suy tim do suy chức năng bơm máu của tim với đặc điểm phân số tống máu EF < 45%. Trong suy tim tâm thu, khả năng co bóp của thất trái giảm làm cho thể tích tống máu không đầy đủ khiến cung lượng tim giảm. Nguyên nhân do tế bào cơ tim mất chức năng hoặc bị hủy hoại. Cơ chế thường gặp là thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim và sẹo hóa. Tế bào cơ tim còn bị hủy hoại bởi quá trình viêm (viêm cơ tim) hoặc thâm nhiễm (amyloidosis) hay trong các bệnh bẩm sinh như bệnh teo cơ Duchenne, cấu trúc phân tử của từng tế bào cơ tim bị rối loạn. Các chất độc và thuốc (như etanol, cocaine, amphetamines) là nguyên nhân gây tổn hại nội bào cơ tim. Tế bào cơ tim chết được thay thế bằng tổ chức sẹo đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng của cơ tim. Trên siêu âm tim, hiện tượng này được thể hiện bằng hình ảnh rối loạn vận động hay không vận động từng vùng hoặc toàn bộ các thành tim.

Do tâm thất không được làm rỗng một cách thỏa đáng, áp lực cuối tâm trương và thể tích cuối tâm trương tăng lên. Áp lực này được truyền lên tâm nhĩ. Tại các buồng tim trái, áp lực tác động lên hệ mạch phổi làm tăng áp lực thủy tĩnh, tạo điều kiện thuận lợi cho máu dễ dàng thoát quản vào phế nang gây phù phổi cấp. Phía các buồng tim phải, áp lực được truyền ngược về phía hệ thống tĩnh mạch và mao mạch. Tại đây áp lực thủy tĩnh tăng cũng tạo điều kiện cho dịch trong lòng mạch tràn vào tổ chức của các cơ quan đích và các chi gây phù, nhất là hai chi dưới. 

 

SUY TIM TÂM TRƯƠNG

Suy tim tâm trương là suy tim do giảm sự thư giãn của buồng tim và thành tim trong thời kỳ tâm trương. Thể tích đổ đầy tâm thất không đủ do buồng thất giãn ra không hết làm cho thể tích tống máu giảm, cung lượng tim thấp. Do tăng áp lực cuối tâm trương nên hậu quả cuối cùng cũng giống như suy tim tâm thu (phù phổi trong suy tim trái, phù ngoại biên trong suy tim phải). Nguyên nhân thường do các bệnh làm tái cấu trúc tim.

Chức năng tâm trương có thể đánh giá bằng siêu âm tim Doppler thông qua các chỉ số như tỷ lệ E/A, thời gian giảm tốc của sóng E, thời gian giãn đồng thể tích.

Kiểm soát và điều trị bằng thuốc làm chậm dẫn truyền nhĩ thất (chẹn dòng can xi, chẹn bê ta giao cảm) là điểm mấu chốt để phòng ngừa suy tim mất bù.

 

TS. Tạ Mạnh Cường

Photo: www.pbase.com

 

 

Bài viết đăng trên Bệnh học Tim Mạch trực tuyến Việt Nam
Http://www.cardionet.vn
Xuất bản: 27/3/2009
[In trang]