Chẩn đoán xác định dựa vào lâm sàng (tiếng thổi tâm trương ở liên sườn 3 cạnh bờ trái xương ức, lan dọc xuống dưới theo bờ trái xương ức, nghe rõ khi bệnh nhân ngồi dậy, ngả người về phía trước, thở ra hết rồi nín thở, huyết áp chênh lệch giữa số tối đa và tối thiểu, hiệu số huyết áp giữa tối đa và tối thiểu càng lớn thì mức độ hở van động mạch chủ càng nhiều) và siêu âm Doppler tim (những phương pháp khác như chụp Xquang tim phổi, điện tim, thông tim đưa thông tin bổ sung, đánh giá những tổn thương phối hợp và mang ý nghĩa tiên lượng và điều trị nhiều hơn là chẩn đoán). Siêu âm tim kiểu TM cho biết kích thước và đánh giá chức năng thất trái, kiểu 2D giúp đánh giá chính xác hơn những thương tổn của van động mạch chủ (dày, vôi hóa hoặc van động mạch chủ chỉ có hai lá van…), Doppler giúp đánh giá được mức độ hở chủ, kể cả những trường hợp hở chủ nhẹ bằng nhiều phương pháp như Doppler màu, Doppler xung và Doppler liên tục. Hở động mạch chủ thường diễn biến tiềm tàng trong nhiều năm. Nhưng một khi đã xuất hiện các biến chứng (suy tim, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, cơn đau thắt ngực) thì bệnh lại tiến triển nhanh và nguy hiểm. Điều trị nội khoa gồm các biện pháp dùng kháng sinh phòng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, điều trị suy tim nếu có bằng chế độ nghỉ ngơi, ăn nhạt hợp lý, dùng thuốc trợ tim, lợi tiểu, giãn mạch. Thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensine II nên được dùng một cách hệ thống và sử dụng liều cao nếu bệnh nhân dung nạp tốt. Điều trị ngoại khoa bằng phẫu thuật thay van nhân tạo với những bệnh nhân đã từng có biểu hiện của suy tim, có cơn đau thắt ngực, suy chức năng thất trái (EF trên siêu âm < 55%, đường kính cuối tâm thu thất trái > 50 mm thì nên mổ sớm dù bệnh nhân không có triệu chứng trên lâm sàng), gốc động mạch chủ giãn > 50 - 55 mm để tránh biến chứng lóc tách động mạch chủ, hở động mạch chủ cấp tính (trong viêm nội tâm mạc do vi khuẩn làm thủng hoặc rách van động mạch chủ…).
TS. Tạ Mạnh Cường |